Cuộc khủng hoảng sức khỏe toàn cầu thay đổi cách thế hệ Z (sinh sau năm 1998) tiếp cận công việc, lựa chọn nhà tuyển dụng, theo đuổi học vấn.
Vì Covid-19, bạn bè tổ chức các bữa tiệc trực tuyến trên Instagram. Giáo viên tải các bài học lên Youtube. Bác sĩ khám bệnh từ xa qua FaceTime hoặc Google Duo. Các nghệ sĩ tổ chức các buổi hòa nhạc trực tiếp trên Facebook. Người tiêu dùng sử dụng ứng dụng ví điện tử để mua các dịch vụ thiết yếu từ xa. Nhân viên tương tác cùng các đồng nghiệp bằng kỹ thuật số thông qua các ứng dụng phòng họp ảo.
Trở lại “bình thường” sẽ làm thay đổi ngành giáo dục, công việc và các ngành công nghiệp. Nhưng có lẽ những thay đổi lớn nhất sẽ làm ảnh hưởng đến lực lượng lao động trong tương lai – thế hệ Z, những người sinh sau năm 1998. Bây giờ, trong suốt giai đoạn trưởng thành, họ phải đối mặt với thử thách không giống với thế hệ nào trước họ. Sự kiện chưa có tiền lệ này sẽ ảnh hưởng không thể xóa nhòa đối với hành vi, quyết định và kỳ vọng của họ.
Phụ thuộc sâu hơn vào công nghệ
Trong khi loài người cố gắng giữ khoảng cách vật lý với nhau, thế giới chuyển sang nền tảng và công cụ kỹ thuật số để duy trì kết nối xã hội. Các thế hệ lớn hơn buộc phải kết nối kỹ thuật số giờ phát hiện ra công nghệ trở nên dễ sử dụng hơn mặc dù họ từng phớt lờ nó.
Sự đánh giá cao gần đây của thế hệ có uy tín đối với công nghệ, như việc dễ dàng sử dụng chúng để làm việc từ xa, cùng với độ nhạy bén kỹ thuật số sẵn có của Gen Z sẽ làm tăng tỷ lệ áp dụng công nghệ mới vào công việc.
Nền tảng giáo dục độc đáo
Do cuộc khủng hoảng này, 290 triệu sinh viên trên khắp thế giới và 4,9 triệu sinh viên Mỹ bị ảnh hưởng bởi các trường học đóng cửa. Buộc phải học qua mạng, bản thân các giáo viên cũng cảm thấy lạ lẫm vì 70% giáo viên ở Mỹ chưa từng giảng dạy trực tuyến. Tuy nhiên, chính các sinh viên lại thấy rất quen thuộc vì 62% thuộc Gen Z nước này sẽ chọn không có bằng đại học và truy cập Internet không giới hạn hơn là có bằng đại học và không có Internet.
Ngoài ra, chỉ có 26% Gen Z coi giáo dục là rào cản cho thành công tại nơi làm việc và 90% nhà tuyển dụng cho biết họ đang cởi mở hơn khi chấp nhận các ứng cử viên không theo truyền thống, tức không có bằng đại học 4 năm.
Khi niềm tin lâu nay về giáo dục đại học bắt đầu suy giảm với học sinh, phụ huynh và nhà tuyển dụng, dự kiến lực lượng lao động trong tương lai có nền tảng giáo dục độc đáo cùng với sự kết hợp của nano-degree (chứng chỉ công nghiệp dành cho các công việc trong lĩnh vực công nghệ), các chứng chỉ và các danh mục đầu tư kỹ thuật số giúp họ có vị trí phát triển tốt hơn.
Bắt đầu sự nghiệp sớm hơn
Do ngày nay có nhiều lựa chọn thay thế cho việc học đại học hơn trước đây, Gen Z có thể xem xét từ bỏ hoàn toàn việc học đại học theo truyền thống để đi làm ở một công ty có đào tạo như đại học và phát triển. Trên thực tế, 62% Gen Z tại Mỹ thoải mái với ý tưởng gia nhập lực lượng lao động trước khi hoàn thành bằng đại học.
Jenn Prevoznik, Trưởng phòng thu nhận tài năng sớm toàn cầu ở SAP, cho biết cô là người Gen Z yêu thích khi chấp nhận tuyển dụng mà bỏ qua việc học đại học, do các kỹ năng và sẵn lòng học hỏi quan trọng hơn bằng cấp.
Nâng cao giá trị về học tập và phát triển
Khi Gen Z gia nhập lực lượng lao động sớm hơn các thế hệ trước hoặc với nền tảng giáo dục độc đáo, họ sẽ tìm kiếm nhà tuyển dụng cung cấp đào tạo cần thiết để đạt được các kỹ năng cứng và mềm họ cần. 84% người Mỹ cho biết con đường sự nghiệp của họ sẽ khác biệt đáng kể so với cha mẹ của họ.
Ý tưởng làm việc ở một công ty, một ngành công nghiệp hoặc một vai trò là lỗi thời, đặc biệt đối với lực lượng lao động tương lai. Các nhà tuyển dụng cung cấp trải nghiệm học tập mà Gen Z thực sự sử dụng, thích và áp dụng được sẽ thu hút được lực lượng lao động đó.
Thay đổi quan điểm của các nhà tuyển dụng
Trước đây, công việc và cuộc sống kết hợp với nhau nhiều hơn bao giờ hết. Vì công nghệ di động, nhân viên mang nhiều công việc về nhà và nhiều cuộc sống vào công việc hơn. Nơi làm việc trở thành không gian làm việc. Và bây giờ, công việc và cuộc sống hoàn toàn hợp nhất.
Đối với Gen Z, khó phân biệt rõ ràng lúc kết thúc công việc và lúc cuộc sống bắt đầu, vì đối với họ tất cả chỉ là cuộc sống. Công việc và cuộc sống luôn hài hòa. Nơi làm việc trong tương lai không chỉ là nơi dành cho công việc, nó còn là nơi cuộc sống diễn ra. Dự kiến Gen Z xem nhà tuyển dụng như tổ hợp về sự hỗ trợ sức khỏe, thể chất, tinh thần và giáo dục.
Con đường sự nghiệp đa dạng hơn
Các nhân viên dịch vụ thuộc Gen Z mất nhiều giờ làm việc hơn bất kỳ thế hệ nào, và 29% nhân viên thuộc Gen Z (18 đến 24 tuổi) tại Mỹ bị mất việc so với chỉ 13% các thế hệ khác. Với những con số này, thật không ngạc nhiên khi Gen Z quan tâm đến việc đa dạng hóa các nguồn thu nhập.
Trên thực tế, nếu đưa ra lựa chọn, 53% Gen Z thà làm việc tự do hơn là công việc toàn thời gian và 46% Gen Z gia nhập vào nền kinh tế tự do. Khi chu kỳ công việc quay càng ngày càng nhanh – cắt giảm nhu cầu đối với nhân viên chính thức – và công việc tự do trở nên dễ dàng và sinh lợi hơn, dự kiến con đường sự nghiệp của thế hệ lao động trẻ sẽ đa dạng hơn.
Nhu cầu về các nhà lãnh đạo có ‘trí tuệ cảm xúc’
Ngoài việc là thế hệ đầy căng thẳng và có nhiều lo lắng, Gen Z còn là thế hệ cô đơn nhất. Hơn một nửa số người thuộc Gen Z đồng cảm với 10 trong 11 cảm xúc liên quan đến cô đơn. Những cảm giác phổ biến nhất mà Gen Z trải qua là cảm thấy như mọi người xung quanh không thực sự ở bên cạnh họ (69%), ngại ngùng (69%) và như không có ai thực sự hiểu rõ về họ (68%).
Sau thời điểm bất ổn và giãn cách xã hội này trôi qua, Gen Z sẽ phát triển nhanh nhờ sự kết nối, sự an tâm và đồng cảm mà các nhà lãnh đạo có “trí tuệ cảm xúc” – tức người có khả năng làm chủ cảm xúc – mang lại.
Thống nhất toàn cầu lớn hơn
Gen Z không chỉ trưởng thành cùng với việc chơi game online với những người lạ trên khắp thế giới, mà hiện còn cùng nhau trải qua cuộc khủng hoảng sức khỏe toàn cầu. Số lượng người thuộc Gen Z xác định là công dân toàn cầu hơn là công dân của đất nước họ (42%), có khả năng tăng lên khi họ đang cùng chia sẻ khó khăn với nhau.
Vì vậy, lực lượng lao động trong tương lai sẽ có ý thức thống nhất toàn cầu cao hơn và kết quả là họ đòi hỏi nhiều hơn ở chủ lao động và các lãnh đạo.
Phiên An (theo Entrepreneur)